Chính vì vậy Hà Nội đã chọn đúng hòn đá tảng để chạm khắc một lần nữa vào ký ức toàn nhân loại một quốc gia có nền văn hiến mấy nghìn năm. Chỉ tính riêng hai triều đại Lê- Mạc đã có cả nghìn “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Những tấm bia tiến sĩ ở Văn Miếu là dấu ấn xác thực, độc đáo và duy nhất, có ý nghĩa quốc tế của một thời đại ở Việt Nam, không ai có thể làm khác được, vì ngoài nội dung còn có giá trị nghệ thuật, điêu khắc đá. Đó thực sự là một di sản của thế giới.
Một nghìn năm, có cả hàng nghìn chuyện để nói. Ngày 21-11-1009 Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngay sau đó, mùa xuân năm 1010, Ông quyết định rời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, Khi thuyền ngự vừa dừng trên sông Tô Lịch thì thấy rồng vàng bay lên. Đó chẳng phải là trời xui đất khiến sao? Một dân tộc mà thủ đô, nơi có rồng vàng bay lên thì thử hỏi trên thế giới này có thủ đô của nước nào có được điều này? Việc rời đô của Vua Lý Cống Uẩn đã có một tầm nhìn chiến lược về lâu về dài. Giáo sư tiến sĩ Hàn Quốc YU IN SUN đã nhận xét “Việc rời đô cho thấy nhà Vua có ý định xây dựng một chính quyền Trung ương mạnh để cai quản toàn bộ lãnh thổ đất nước”. Những phát hiện khảo cổ học về Thăng Long ngay giữa trung tâm văn hóa quốc gia có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với nước ngoài, đó là kỷ nguyên văn minh Đại Việt.
Lần theo sử sách về thời kỳ cách đây trên 2 vạn năm, Hà Nội còn nằm giáp biển. Chính con sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Nguy Sơn cao 1776m thuộc huyện Nhị Đô tỉnh Vân Nam-Trung Quốc chảy qua Hà Nội, bồi đắp nên châu thổ sông Hồng, tạo cho Hà Nội có thế như ngày hôm nay. Theo dòng lịch sử, vào năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đưa 50 vạn quân đánh Bách Việt, dải đất phía Nam Trung Hoa. Một thủ lĩnh Nam Việt là Thục Phán đã tổ chức cuộc kháng chiến hơn 10 năm và đã chiến thắng quân Tần. Thục Phán đã tổ chức cuộc kháng chiến hơn 10 năm và đã chiến thắng quân tần. Thục Phán dựng nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa. Sau đó nhà tùy, nhà Đường dẹp được Lý Bí, vua của nước Vạn Xuân để đô hộ nước ta 1000 năm. Đó là thời kỳ tiền Thăng Long, một thời kỳ dài 1000 năm Bắc thuộc, nước ta đã quằn quại chống xâm lược, chống sự đồng hóa để đến mùa xuân 938, Ngô Quyền đại thắng trên sông Bạch Đằng, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc mang về độc lập-tự do cho dân tộc.
Biết bao cuộc chiến tranh, trong lịch sử 1000 năm Thăng Long- Hà Nội, người Thăng Long đã phải 7 lần giải phóng, chiếm lại thủ đô.
Dường như các triều đại, kể cả thời Lý, việc giữ nước quyết định ở lòng người, thuận với lòng trời hơn là đắp thành cao, hào sâu. Việc mà Triều lý quan tâm và các triều đại sau cũng quan tâm là xây chùa và hành đạo, đào tạo và trọng dụng hiền tài. Cùng với “Tứ trấn” được lập ở Đông-Tây-Nam-Bắc nhờ thần linh trấn trị thì chỉ 60 năm sau, khi định đô ở Thăng Long, Vua Lý Thánh Tông đã lập Văn Miếu để 5 năm sau (1075) đã mở khoa thi đầu tiên để chọn người có học và ngay năm sau, Vua Lý Nhân Tông đã lập Quốc Tử Giám, như một thiết chế Nhà nước chăm lo việc học và hun đúc nhân tài cho quốc gia. Giống như Điện Kính Thiên là không gian thiêng liêng nhất của Kinh thành Thăng Long, qua nhiều biến động của chính trị và thời gian, Văn Miếu Quốc Tử Giám không hề thay đổi, bởi lẽ không đời nào là không coi trọng việc học. Sử sách chép lại: Văn Miếu- Quốc Tử Giám được tu bổ, đặc biệt là lần “Đại trùng tu” dưới triều Lê Thánh Tông, một triều thịnh trị với nhiều thành tựu về trí tuệ. Sử chép công trình sửa sang năm 1438 cho thấy quy mô khá lớn của cơ sở giáo dục này. Và bia đá, tạo nên một di sản cả vật thể và phi vật thể mà giờ đây ta đang kế thừa.

Văn Miếu Quốc Tử Giám không thay đổi qua nhiều biến động của chính trị và thời gian.
Cũng phải nói thêm rằng, thời Minh thuộc kéo dài 2 thập kỷ vào đầu thế kỷ XV đã chứng kiến chính sách hủy diệt nền văn hóa Đại Việt của quân xâm lược. Nhưng chính Văn Miếu-Quốc Tử Giám thờ Khổng Tử và các học trò của Ngài nên Văn Miếu-Quốc Tử Giám trở thành ngoại lệ được bảo tồn.
Những cuộc phân tranh giữa nhà Tây Sơn và các Chúa cũng đã chứng kiến những đổ vỡ, lưu lại tại đây và để đáp lại kiến nghị của dân làng Văn Chương xin Vua Quang Trung dựng lại nhà bia, người anh hùng áo vải đã trả lời thật lịch thiệp “Nay mai dựng lại nước nhà/Bìa nghè lại dựng trên tòa muôn gian”. Hoàng Đế Quang Trung băng hà, người kế vị là Quang Toản đã quyết định trùng tu Văn Miếu-Quốc Tử Giám, chưa kịp làm thì nhà Tây Sơn đổ. Nhưng vua đầu nhà Nguyễn là Gia Long đã giao cho Tổng trấn Bắc thành không những sửa sang mà còn dựng thêm một kiến trúc, giờ đây trở thành biểu tượng của thủ đô. Đó là Khuê Văc Các (1805). Cuối thế kỷ XIX, Văn Miếu-Quốc Tử Giám lại một phen binh đao nhiễu sự. Nó bị quân đội chiếm đóng, có lúc đã định dùng làm nơi quy nạp những người mắc dịch để rồi thiêu hủy cho hợp vệ sinh của người phương Tây đang cai trị. Chính vòng tường thấp bao quanh hiện nay mới được dựng vào thời kỳ thực dân Pháp phá thành và dùng gạch này để khoanh khuôn viên hạn hẹp như ngày nay. Khu này có thời kỳ hoang vắng, biến thành nơi trú ngụ của quạ. Nhưng rồi cũng chính nền văn minh phương Tây đã xác lập những giá trị theo quan điểm hiện tại, thông qua viện Viễn Đông Bắc Cổ lại xếp hạng để bảo tồn như một di tích của nền văn minh bản địa (1906) để rồi gắn một hoa hội tiếp theo. Năm 1962, Bộ Văn hóa xếp hàng di tích này và năm 1994, xây nhà bia để bảo quản một trong những di sản vật thể quan trọng.
Đến nay, có thể nói nơi đây trở thành một điểm du lịch sầm uất và mang tính đặc trưng nhất của thủ đô Hà Nội. Có thể nói, nơi đây là nơi mà người Việt Nam tự hào khi giới thiệu với bạn bè quốc tế. Hình tượng Tổng thống Mỹ Bill Clintơn sờ đầu ông Rùa đội bia tiến sĩ gây bao ấn tượng.

Quần thể với 82 bia tiến sĩ thuộc loại quý nhất của Văn Miếu-Quốc Tử Giám là 82 tấm bia đã khắc ghi tên tuổi những vị đỗ đạt khoa, kể từ khoa Nhâm Tuất (1442) đến muộn nhất là khoa Kỷ Hợi (1779) trước khi kinh đô triều Nguyễn chuyển vào Huế. Trên những tâm bia này còn lưu lại những bài văn bia giàu triết lý.
Bia khoa Nhâm Tuất nói rõ mục đích: “Cho nên lại ghi tên khắc đá để bày nơi cửa hiền tài, khiến kẻ sĩ trông vào mà sinh lòng hâm mộ phấn chấn, tự rèn luyện lấy danh tiết”. Còn bia năm 1463 thì nói thêm việc khắc bia đá “Là để gây lạc quan cho kẻ sĩ” bia năm 1565 thì nhấn mạnh “Dựng bia vừa để công danh còn mãi đến muôn đời, vừa để sự nghiệp soi sáng ngàn thủa”. Nhưng có lẽ cái nghĩa lý sâu xa nhất cũng là thông điệp của người xưa qua những bài văn bia ở đây ngưng tụ lại một câu nổi tiếng của Thân Nhân Trung soạn năm 1442 “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài”.
Văn Miếu-Quốc Tử Giám trải qua biết bao nhiều đời vẫn sáng đẹp tên tuổi các bậc danh nhân-văn hóa là tấm gương soi cho thế hệ muôn đời. Hà Nội xứng đáng là mảnh đất ngàn năm văn vật “Hà Nội, niềm tin yêu hy vọng-của núi sông hôm nay và mai sau”. Cái nôi của văn hóa muôn đời.
Theo Người Hà Nội